![]() |
| LH: 0968181828 |
Ý nghĩa đề kinh:
- Đại Phật Đảnh. Chữ “đại” ở đây có nghĩa là rộng lớn bao trùm, rốt ráo cùng cực. “Phật đảnh” là tướng “nhục kế” trên đỉnh đầu của đức Phật. Đó là tướng cao quí, nhiệm mầu nhất trong 32 tướng tốt của đức Phật, con mắt phàm phu của chúng sinh không thể thấy được.
- Như Lai Mật Nhân. “Như Lai” là danh hiệu đầu tiên trong mười danh hiệu chung của chư Phật; Như Lai tức là Phật. “Mật nhân” nghĩa là nguyên nhân sâu kín huyền nhiệm, đó tức là chân tâm tịch tĩnh, thanh tịnh, thường hằng.
- Tu Chứng Liễu Nghĩa. “Liễu nghĩa” có nghĩa là tiến thẳng tới chỗ rốt ráo cùng cực, đó là giải thoát trọn vẹn, niết bàn tuyệt đối, là quả vị Vô thượng Bồ đề, là Phật. Nương vào chân tâm bất sinh diệt để tu hành, tu mà không trước tướng, tu mà không tu, đó gọi là “tu liễu nghĩa”; chấm dứt sinh diệt, thể nhập thật tánh vạn hữu, giải thoát rốt ráo, đạt niết bàn tuyệt đối, gọi là “chứng liễu nghĩa”. Cả tu và chứng đều liễu nghĩa, gọi là “tu chứng liễu nghĩa”.
- Chư Bồ Tát Vạn Hạnh. Bồ-tát tu vô số hạnh, gọi tổng quát là “muôn hạnh”. Bồ-tát vận dụng trí tuệ và từ bi, trên thì cầu đạo quả giác ngộ, dưới thì cứu độ chúng sinh, tự lợi và lợi tha gồm đủ, đó là “muôn hạnh của chư vị Bồ-tát”.
- Thủ Lăng Nghiêm. Ba chữ này là phần chủ yếu trong đề kinh. Chữ “thủ lăng” có nghĩa là tất cả đều rốt ráo; chữ “nghiêm” nghĩa là bền chắc. “Thủ-lăng-nghiêm” là tên một loại định, và đó là loại định lực rốt ráo, kiên cố, bao trùm tất cả các loại định khác, chỉ có chư vị Bồ-tát ở các bậc Thập-địa, Đẳng-giác và Phật (Diệu-giác) mới đạt được; bởi vậy, nó được gọi là “đại định”, hay “đại căn bản định”. Nó chính là chân tâm bản lai thanh tịnh, tịch tĩnh, thường hằng, không lay động, không tán loạn, không dời đổi, cho nên cũng được gọi là “Phật tánh”.
Định Thủ Lăng Nghiêm rộng lớn, sâu nhiệm, siêu việt thời gian và không gian, không thể đem tâm thức vọng tưởng phân biệt của chúng sinh mà nhận biết được, giống như tướng “nhục kế” trên đỉnh đầu của đức Phật (đại Phật đảnh), con mắt của chúng sinh phàm phu không thể trông thấy được.
Định Thủ Lăng Nghiêm là cái nhân sâu kín, từ đó mà phát khởi ra vô lượng công đức trí tuệ của chư Phật, và cũng từ đó mà chư Phật thành tựu đạo quả Bồ Đề Niết Bàn Vô Thượng; cho nên nó được gọi là “Như Lai mật nhân”.
Định Thủ Lăng Nghiêm là loại định rốt ráo, vô thượng, cho nên tu định này tức là tu pháp môn viên đốn (trọn vẹn, nhanh chóng), để chứng đạt tức thì đạo quả rốt ráo, tối thượng, gọi là “tu chứng liễu nghĩa”.
Chư vị Bồ-tát thực hiện muôn hạnh tự lợi, lợi tha hoàn toàn viên mãn đều do thành tựu được định Thủ Lăng Nghiêm này, cho nên định này cũng tức là “chư Bồ-tát vạn hạnh”.
Chân tâm thanh tịnh, tịch tĩnh, thường hằng, vốn sẵn có nơi chúng sinh. Nhưng vì chúng sinh mê lầm, không tự nhận biết được, si cuồng chấp có thân tâm ta và sự vật ở ngoài ta, chạy theo trần cảnh mà phát sinh phiền não, đắm trước, tạo ra vô số tội lỗi; rồi theo nghiệp lực, quả báo mà luân chuyển trong sinh tử luân hồi. Đức Phật thương xót, nói Kinh Thủ Lăng Nghiêm này để độ cho các chúng sinh có căn cơ cao, nhanh chóng phá trừ mê muội, dứt tuyệt phiền não, chứng nhập đại định Thủ Lăng Nghiêm, trực nhận bản tâm thanh tịnh thường trú, sáng suốt nhiệm mầu, đạt được địa vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Vị thính giả đương cơ để Phật nói Kinh Thủ Lăng Nghiêm này là tôn giả A Nan (hay A Nan Đà). Ngài là em chú bác của đức Phật, sau khi theo Phật xuất gia, được làm thị giả hầu cận Phật trong một thời gian dài, trở thành vị đệ tử được nghe Phật nói pháp nhiều nhất, đầy đủ nhất, và nhớ kĩ nhất, được mọi người tôn kính xưng là vị thánh tăng nghe nhiều hiểu rộng nhất (đa văn đệ nhất) trong tăng đoàn của Phật; và được liệt vào một trong mười vị đại đệ tử của Phật.
